Văn hóa Nepal

Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của xã hội Nepal. Các câu chuyện truyền thống có nguồn gốc từ thực tế trong sinh hoạt thường nhật, các truyện kể về tình yêu, tình cảm và chiến tranh cũng như ma quỷ và do đó phản ánh phương thức sinh hoạt, văn hóa và đức tin địa phương. Nhiều truyện dân gian Nepal được thuật lại bằng vũ đạo và âm nhạc.

Hầu hết các nhà tại nông thôn vùng thấp của Nepal làm từ khung tre và vách làm từ hỗn hợp bùn và phân bò. Những căn nhà này mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông. Nhà ở tại vùng đồi thường làm bằng gạch không nung cùng mái tranh hoặc ngói. Tại vùng cao, nhà ở làm từ đá và có thể sử dụng đá bảng trên mái.

Quốc kỳ Nepal là quốc kỳ duy nhất không có hình chữ nhật.[116] Nepal có 36 ngày lễ công cộng mỗi năm, đứng hàng đầu thế giới.[117] Một năm theo lịch Nepal bắt đầu vào ngày đầu tiên của tháng Baisakh trong lịch Ấn Độ giáo chính thức của Nepal là Bikram Sambat, rơi vào giữa tháng 4 và một năm được chia thành 12 tháng. Thứ Bảy là ngày nghỉ lễ hàng tuần chính thức. Các ngày lễ chính hàng năm là ngày Liệt sĩ (18 tháng 2), và các lễ hội hỗn hợp Ấn Độ giáo và Phật giáo như Dashain vào mùa thu, Tihar vào giữa thu và Chhath vào cuối thu. Trong lễ hội Swanti, người Newars cữ hành lễ Mha Puja để kỷ niệm tết theo lịch Nepal Sambat. Do là một quốc gia thế tục, Nepal cũng có ngày nghỉ lễ vào các lễ hội chính của tôn giáo thiểu số.[111]

Các món ăn quốc gia của Nepal là Dhindo và Gundruk. Bữa ăn chính của người Nepal là dal bhat, dal là canh đậu lăng, và đi kèm với bhat (cơm), cùng tarkari (rau nấu cà ri) và achar (rau giầm) hoặc chutni (món gia vị làm từ nguyên liệu tươi). Nó gồm có các món mặn và chay. Dầu mù tạc là phương thức chế biến phổ biến và gồm có nhiều gia vị, như thì là, rau mùi, hạt tiêu, , nghệ, tỏi, gừng, cỏ ca ri, lá nguyệt quế, đinh hương, quế, ớtmù tạt được sử dụng trong nấu nướng. Momo là một loại bánh hấp với nhân thịt hoặc rau, và là món ăn nhanh phổ biến tại nhiều khu vực của Nepal.

Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Nepal[118] và được chơi lần đầu vào năm 1921.[119] Sân vận động quốc tế duy nhất của Nepal là Sân vận động Dasarath Rangasala, cũng là sân nhà của đội tuyển quốc gia.[120]Cricket được phổ biến trong thời gian gần đây, đội tuyển quốc gia Nepal thi đấu trên sân nhà tại Sân Cricket Quốc tế Đại học Tribhuvan.[121]

Dù Nepal áp dụng hệ mét làm tiêu chuẩn chính thức từ năm 1968,[122] song các đơn vị đo lường truyền thống vẫn còn phổ biến. Các đơn vị truyền thống về diện tích được áp dụng tại khu vực Terai– như katha hay bigha. – giống như tại những nơi khác của Nam Á. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đo lường diện tích của chúng lại khác nhau, như một katha tại Nepal tương đương 338,63 m², trong khi một katha tại Bangladesh tương đương khoảng 67 m². Ngoài các đơn vị bản địa, hệ đế quốc Anh liên quan đến chiều dài (cụ thể là inch và foot), và hệ mét như kg và lít cũng khá phổ biến trong giao thương hàng ngày.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nepal http://www.budde.com.au/Research/Nepal-Telecoms-Mo... http://www.starobserver.com.au/soap-box/2009/06/16... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F003422.php http://www.aljazeera.com/news/2018/02/kp-sharma-ol... http://www.bbc.com/news/world-south-asia-12511455 http://edition.cnn.com/2007/WORLD/asiapcf/12/28/ne... http://www.cricketarchive.com/Archive/Grounds/93/g... http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id... http://ekantipur.com/2013/02/23/top-story/new-army... http://kathmandupost.ekantipur.com/news/2017-03-15...